Cách mạng Tháng Tám 1945 mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc, đặt nền móng cho phát triển kinh tế - xã hội. Trải qua 80 năm, Việt Nam không chỉ thành công trong thu hút FDI mà còn mở rộng OFDI, hướng tới một nền kinh tế độc lập, tự chủ và bền vững.
Việt Nam không chỉ thành công trong thu hút FDI mà còn mở rộng OFDI, hướng tới một nền kinh tế độc lập, tự chủ và bền vững
Cách mạng Tháng Tám – nền tảng cho độc lập và phát triển các nền móng
Trao đổi với báo chí, TS Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Liên chi hội tài chính Khu công nghiệp (KCN) Việt Nam (VIPFA), Nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) nhận định: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Không chỉ mang ý nghĩa chính trị, Cách mạng Tháng Tám còn mở đường cho việc hình thành nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thành quả ấy là cơ sở để hoạch định các chính sách đối nội và đối ngoại, trong đó chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Nhìn lại chặng đường phát triển 80 năm qua (1945 – 2025) có thể thấy mối liên hệ mang tính biểu tượng: Nếu Cách mạng Tháng Tám giúp Việt Nam giành lại chủ quyền dân tộc, thì FDI trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập đã khẳng định chủ quyền kinh tế của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Ngay sau ngày thống nhất đất nước, các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đã tính đến việc sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh ngân sách eo hẹp, cơ sở hạ tầng bị chiến tranh tàn phá. Trên cơ sở đó, tháng 4/1977, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ký Nghị định số 115-CP ban hành Điều lệ Đầu tư nước ngoài. Đây là văn bản pháp lý, "nền móng" đầu tiên thể chế hóa chính sách kinh tế đối ngoại, quy định cụ thể về lĩnh vực, đối tác, hình thức, thời hạn, quản lý vốn, chế độ kế toán – thống kê, thủ tục đầu tư, giải thể và xử lý tranh chấp.
TS Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Liên chi hội tài chính Khu công nghiệp (KCN) Việt Nam (VIPFA), nguyên Cục trưởng Cục ĐTNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) - Ảnh : VGP/HT
TS Phan Hữu Thắng nhận định: Điều lệ 1977 mở ra trang mới trong lịch sử phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam, hướng tới đa phương hóa, đa dạng hóa. Ngân hàng National City Bank đã bình luận: "Người Việt Nam đã bày tỏ mức độ khá thực dụng khi đưa ra bản Điều lệ Đầu tư nước ngoài, điều hiếm thấy ở một chính phủ xã hội chủ nghĩa".
Tuy nhiên, do bối cảnh quốc tế chưa thuận lợi, văn bản này chưa mang lại kết quả như kỳ vọng. Đến năm 1984, Bộ Chính trị quyết định bổ sung và hoàn thiện, tiến tới xây dựng một đạo luật đầu tư hoàn chỉnh. Sau nhiều vòng thảo luận, ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây là đạo luật mang tính bước ngoặt, đánh dấu thời kỳ mới trong thu hút FDI.
Kể từ đó, Luật Đầu tư nước ngoài đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005, 2014 và 2020. Luật ngày càng thông thoáng, hấp dẫn, phù hợp thông lệ quốc tế. Nhà đầu tư nước ngoài có thể triển khai thuận lợi, qua đó đưa dòng vốn FDI tăng trưởng mạnh mẽ, đóng góp quan trọng cho công cuộc đổi mới.
Dù một số yêu cầu chưa đạt như kỳ vọng, nhưng các mục tiêu xuyên suốt của chính sách FDI luôn được nhấn mạnh: thu hút công nghệ và kỹ thuật cao, tiếp nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến, thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hóa, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời củng cố nền kinh tế độc lập, tự cường.
Năm 2005, Quốc hội ban hành Luật Đầu tư, áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo "sân chơi" bình đẳng, đơn giản hóa thủ tục, thuận lợi cho hội nhập quốc tế. Vì vậy, FDI không chỉ mang lại vốn mà còn công nghệ, quản lý, mở rộng thị trường, đóng góp lớn cho tăng trưởng.
Hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư còn giúp Việt Nam chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11/1/2007, rồi tham gia hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA). Cùng với đó, các lần sửa đổi luật đều gắn với chỉ đạo sát sao của Đảng, phù hợp bối cảnh trong nước và tình hình quốc tế.
Đến năm 2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến 2030. Mục tiêu đặt ra là: Hoàn thiện thể chế cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đưa môi trường kinh doanh Việt Nam thuộc nhóm ASEAN 3.
Đặc biệt, trong phát biểu ngày 10/3/2025 tại Hà Nội nhân dịp 70 năm quan hệ Việt Nam – Indonesia, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: "Việt Nam luôn là điểm đến tin cậy của các nhà đầu tư. Nhiều tập đoàn đã chọn Việt Nam là trung tâm sản xuất chiến lược, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong điện tử, khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chip bán dẫn, kinh tế số, kinh tế xanh."
Sự chỉ đạo sát sao và tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo Đảng thể hiện sự kế thừa tinh thần Cách mạng Tháng Tám 1945. Qua đó, các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và nhà đầu tư trong và ngoài nước có "Kim chỉ nam" để tổ chức thực hiện góp phần vào thành công của Việt Nam phát triển KT-XH trong kỷ nguyên mới.
"Thực tế, các công ty hàng đầu như Samsung, Intel, LG, Foxconn... đã mở rộng sản xuất tại Việt Nam, biến Việt Nam thành cứ điểm sản xuất lớn trong lĩnh vực điện tử và công nghệ. Chúng ta có lực lượng lao động trẻ, chi phí cạnh tranh, môi trường chính trị ổn định và chính sách ưu đãi thu hút đầu tư vào công nghệ cao, những yếu tố này rất hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế", TS Phan Hữu Thắng phân tích.
Nếu thực hiện đồng bộ, OFDI hứa hẹn sẽ trở thành động lực quan trọng đưa kinh tế Việt Nam tiến lên, tạo thế "đi bằng hai chân" vững chắc
OFDI – một động lực mới của kinh tế tư nhân trong hội nhập toàn cầu
Theo TS Phan Hữu Thắng, sau gần 40 năm thực hiện chính sách thu hút FDI, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội. Song song với đó, Việt Nam cũng bắt đầu bước vào giai đoạn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI). Đây là nguồn vốn do doanh nghiệp trong nước mang ra đầu tư tại quốc gia khác, không chỉ nhằm mở rộng thị trường mà còn khẳng định vị thế mới của nền kinh tế.
Thực chất, hai nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư ra nước ngoài (OFDI) đều chủ yếu xuất phát từ khu vực kinh tế tư nhân. Mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân, khẳng định vai trò quan trọng của khu vực này trong tiến trình phát triển đất nước. Thực tế kinh tế tư nhân đang trở thành động lực chính của OFDI.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, OFDI đang trở thành một kênh đầu tư quan trọng song song với FDI. Tuy nhiên, để phát triển mạnh mẽ, cần tháo gỡ những rào cản về thể chế, chính sách, cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực quản lý. Nếu thực hiện đồng bộ, OFDI hứa hẹn sẽ trở thành động lực quan trọng đưa kinh tế Việt Nam tiến lên, tạo thế "đi bằng hai chân" vững chắc.
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính), tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2024 đạt gần 664,8 triệu USD, tăng 57,7% so với năm trước. Cả năm có 164 dự án mới và điều chỉnh, nâng tổng số dự án lũy kế lên 1.825 với vốn đăng ký hơn 22,59 tỷ USD.
Năm 2024 cũng ghi nhận sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Các ngành chuyên môn, khoa học công nghệ chiếm 30,2% tổng vốn, trong khi năm 2023 không có dự án nào thuộc lĩnh vực này. Công nghiệp chế biến chế tạo chiếm 21% vốn, tăng mạnh so với năm trước. Sản xuất và phân phối điện đạt 14,2%, cao hơn 12,1% so với năm 2023.
Dù vậy, so với dòng vốn FDI vào Việt Nam, OFDI vẫn còn khiêm tốn. Nếu FDI giải ngân năm 2024 đạt mức kỷ lục 25,35 tỷ USD thì vốn OFDI lũy kế từ trước đến nay mới ở mức 22,6 tỷ USD.
Tính lũy kế đến cuối năm 2024, khai khoáng dẫn đầu với 7 tỷ USD, chiếm 31% tổng vốn OFDI. Nông – lâm – thủy sản đạt gần 3,4 tỷ USD (15%), trong khi thông tin – truyền thông và dịch vụ công nghệ đạt 2,8 tỷ USD (12,6%). Các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, bất động sản có dự án nhưng vốn nhỏ hơn.
Xét theo quốc gia, OFDI Việt Nam tập trung nhiều nhất ở ASEAN. Lào nhận 5,7 tỷ USD, chiếm 25,15% tổng vốn, Campuchia 2,94 tỷ USD (13%)... Sự lựa chọn này xuất phát từ lợi thế địa lý, văn hóa gần gũi và chi phí gia nhập thị trường thấp hơn. Viettel, FPT, Vinamilk, TH… là những nhà đầu tư lớn của Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Về thành tựu, vốn OFDI và số dự án tăng liên tục qua các năm. Với vai trò như "cầu nối mềm" của nền kinh tế, năm 2023 ghi nhận 64 dự án lãi với tổng lợi nhuận sau thuế 690,4 triệu USD. Xuất hiện những thương vụ M&A và đầu tư công nghệ, cho thấy xu hướng dịch chuyển sang giá trị cao hơn.
Hạn chế là quy mô vốn còn nhỏ, thiếu các dự án chiến lược, công nghệ cao; tập trung nhiều vào khai khoáng và nông nghiệp, dễ rủi ro bởi biến động giá cả và môi trường..
"Các doanh nghiệp Việt nên đầu tư nhiều hơn vào công nghệ, R&D và dịch vụ toàn cầu. Cần hoàn thiện khung pháp lý, thiết lập quỹ bảo hiểm rủi ro, khuyến khích liên doanh và M&A; đào tạo nhân lực quản trị quốc tế, kết nối với trường đại học, triển khai các chương trình nâng cao năng lực. Tầm nhìn đến 2045 là xây dựng tập đoàn Việt Nam trở thành nhà đầu tư toàn cầu trong năng lượng sạch, công nghệ thông tin, viễn thông và dịch vụ tài chính", TS Phan Hữu Thắng góp ý.
Bộ Tài chính đang đề xuất sửa đổi Luật Đầu tư, trong đó bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài của Bộ Tài chính. Thay vào đó, nhà đầu tư sẽ chỉ cần đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi chuyển tiền ra nước ngoài. Theo Bộ Tài chính, việc cắt giảm này sẽ giảm đáng kể thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt. Với quy định mới, việc quản lý đầu tư ra nước ngoài sẽ thực chất hơn, bởi nhà đầu tư chỉ thực hiện khi đã có giấy phép đầu tư hoặc hợp đồng tại nước tiếp nhận. Bộ Tài chính cho rằng quy định hiện hành về quản lý đầu tư ra nước ngoài còn quá rộng, chưa rõ mục tiêu quản lý, đồng thời khó khả thi vì dự án phải tuân thủ pháp luật sở tại. |
Theo Anh Minh/Báo Điện tử Chính phủ
https://baochinhphu.vn/viet-nam-dan-khang-dinh-vi-the-kinh-te-qua-fdi-va-ofdi-102250818200157662.htm