Bên cạnh lợi ích về kinh tế, khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn có ý nghĩa lớn đối với môi trường. Trong bối cảnh hội nhập đồng thời hướng đến mục tiêu Net Zero, đây là xu thế tất yếu và quy luật phát triển của nền kinh tế toàn cầu.
Khu công nghiệp sinh thái Nam Cầu Kiền (thành phố Hải Phòng). (Ảnh: HỒNG ĐIỆP)
"Chậm nhịp" hình thành khu công nghiệp xanh
Sau gần 3 năm triển khai thực hiện Dự án “Triển khai khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình khu công nghiệp sinh thái toàn cầu” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (cũ) phối hợp Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Việt Nam chưa có khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn được cấp chứng chỉ.
Sự phát triển “nóng” trong thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp kiểu cũ khiến cho mục tiêu xây dựng các khu công nghiệp sinh thái dường như bị “chậm nhịp”. Nhiều năm liền, các khu công nghiệp trong nước chỉ có khái niệm về tỷ lệ thu hút, “lấp đầy”… chứ không có khái niệm về hệ sinh thái hay kinh tế tuần hoàn. Điều đó tạo ra những lỗ hổng đối với môi trường và lãng phí nguồn tài nguyên sẵn có.
Theo UNIDO, khái niệm kinh tế tuần hoàn là quá trình luân chuyển vật liệu từ đầu chuỗi đến tái sử dụng trong một vòng lặp khép kín. Sau chu trình “khai thác-sản xuất-tiêu dùng-thải bỏ” truyền thống, chất thải được đưa trở lại đầu chuỗi sản xuất để tạo ra giá trị mới.
Nếu vòng tuần hoàn đó diễn ra trong một phạm vi khu công nghiệp có đủ tiêu chí sinh thái sẽ hình thành khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn. Trong đó các doanh nghiệp gắn kết trong chuỗi sản xuất nhằm tối ưu hóa lợi thế riêng để tạo lợi ích chung.
Cho đến nay, từ 5 mô hình ban đầu thuộc Dự án, cả nước mới triển khai thí điểm 7 khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn trong số hơn 400 khu đang hoạt động (chiếm khoảng 2,3%). Để được công nhận, các khu công nghiệp phải đạt 8 tiêu chí, như: Hạ tầng, cây xanh, quản lý chất thải, an sinh xã hội, sản xuất sạch...
Các mô hình tại Việt Nam phần lớn chưa đạt cấp độ hệ thống mà mới chỉ là cộng sinh đơn hướng hoặc cộng sinh vật lý. Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới đã hình thành các khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn đa hướng, cấp độ cộng sinh cao... Thạc sĩ Nguyễn Thị Trà Giang, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công thương |
Nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Thị Trà Giang, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công thương cho biết: “Các mô hình tại Việt Nam phần lớn chưa đạt cấp độ hệ thống mà mới chỉ là cộng sinh đơn hướng hoặc cộng sinh vật lý. Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới đã hình thành các khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn đa hướng, cấp độ cộng sinh cao; thậm chí đạt đến mối quan hệ cộng sinh liên ngành và mở rộng tương tác tới toàn bộ không gian đô thị và cộng đồng dân cư lân cận”.
Sự chậm chạp trong triển khai thực hiện cho thấy mô hình kinh tế này chưa nhận được sự quan tâm tương xứng. Theo báo cáo của UNIDO, từ năm 2009, Việt Nam bắt đầu xây dựng thí điểm khu công nghiệp sinh thái thông qua một số dự án hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, những hoạt động đó chỉ mang tính chất kỹ thuật, thử nghiệm cộng sinh đơn lẻ giữa một nhóm doanh nghiệp chứ không mang tính hệ thống; cũng không có sự tham gia của cấp quản lý nhà nước thông qua văn bản quy phạm pháp luật.
Đến năm 2018, khái niệm khu công nghiệp sinh thái mới được nhắc đến trong Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, nhưng không đi kèm các hướng dẫn thi hành cụ thể. Các văn bản sau này cũng chủ yếu quy định khung về bảo vệ môi trường, không có chính sách cụ thể nhằm định hướng phát triển; cho đến khi Dự án “Triển khai khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình khu công nghiệp sinh thái toàn cầu” được ký kết và triển khai năm 2022.
Gỡ nút thắt để chuyển dịch mạnh mẽ
Nguyên nhân chính của quá trình chuyển đổi từ khu công nghiệp sang khu công nghiệp sinh thái có phần chậm chạp có lẽ bởi ảnh hưởng của dịch Covid-19, khi khoảng đầu năm 2023 ở nước ta mới chỉ là thời điểm các doanh nghiệp bắt đầu phục hồi sau đại dịch.
Ngoài ra, hầu hết cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp đang hoạt động không được quy hoạch cho một hệ sinh thái tuần hoàn đúng nghĩa. Cơ quan quản lý nhà nước cũng chưa xây dựng và tạo cơ chế tài chính, tín dụng cho các doanh nghiệp cộng sinh; không có cơ chế phối hợp, phân cấp rõ ràng; không có đầu mối quản lý đủ mạnh; thị trường phụ phẩm, nền tảng dữ liệu… cũng không được cập nhật và chia sẻ gây rất nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận những cố gắng của cơ quan quản lý nhà nước cũng như ban quản lý các khu công nghiệp, nhất là các khu công nghiệp đang thực hiện chuyển đổi như Nam Cầu Kiền, Đình Vũ (Hải Phòng), Trà Nóc (Cần Thơ), Hòa Khánh (Đà Nẵng), Hiệp Phước (Thành phố Hồ Chí Minh), Amata (Đồng Nai)…
Từ năm 2020, chúng ta đã hình thành khung pháp lý đủ mạnh định hình phát triển kinh tế tuần hoàn, tạo nền tảng phát triển khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn. Cụ thể như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như một số quyết định, nghị định của Thủ tướng Chính phủ và nghị quyết của Quốc hội.
Quyết sách của Nhà nước đã áp dụng hàng loạt ưu đãi đối với khu công nghiệp và doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi. Bên cạnh đó là những yêu cầu giảm phát thải, bảo đảm môi trường, áp dụng kinh tế tuần hoàn… đối với đầu ra cho sản phẩm theo chuẩn quốc tế cũng sẽ tạo động lực cần thiết cho việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi của các khu công nghiệp ở Việt Nam. |
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế và lãnh đạo các ban quản lý khu công nghiệp, quyết sách của Nhà nước đã áp dụng hàng loạt ưu đãi đối với khu công nghiệp và doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi. Bên cạnh đó là những yêu cầu giảm phát thải, bảo đảm môi trường, áp dụng kinh tế tuần hoàn… đối với đầu ra cho sản phẩm theo chuẩn quốc tế cũng sẽ tạo động lực cần thiết cho việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi của các khu công nghiệp ở Việt Nam. Đó không chỉ là xu thế quốc tế mà còn là quy luật thị trường.
Để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cần phải tháo gỡ các nút thắt. Chuyên gia kinh tế Phạm Hồ Viên nhận định, việc thiếu sự phối hợp và chia sẻ dữ liệu ngay trong một khu công nghiệp khiến phối hợp giữa các doanh nghiệp gặp trở ngại cho thấy, vai trò kết nối của ban quản lý rất hạn chế.
Ngoài ra, cơ quan quản lý cần ban hành bổ sung hướng dẫn về cơ chế thi hành để triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách chung; đề ra lộ trình và quy định thời gian chuyển đổi. Cần xây dựng khung tiêu chí đánh giá chuẩn Việt Nam phù hợp thông lệ quốc tế; xây dựng tiêu chí về mức độ ưu đãi cụ thể đối với từng ngành, từng doanh nghiệp trong mối quan hệ cộng sinh tuần hoàn nhằm tạo động lực; xây dựng và quản lý thị trường cho sản phẩm tuần hoàn; xây dựng, lồng ghép các chính sách liên quan cùng chính sách về kinh tế tuần hoàn…
Theo Nam Phong/ Báo Nhân Dân
https://nhandan.vn/chuyen-doi-xanh-cac-khu-cong-nghiep-post910644.html